Friday
26
April
2024
(View: 40855)
Hội Thánh Phúc Âm - 14381 Magnolia St. Westminster, CA 92683 (NorthWest corner of Magnolia/Hazard). Liên lạc: vuxh2916@gmail.com
(View: 41410)
Kính Chúc Quý Thân Hữu & Giáo Hữu Cùng Toàn Thể Quý Thân Quyến một năm mới tràn đầy Thiên Ân & Thiên Phước ban từ Đấng Cứu Thế Jesus.
(View: 41593)
Cầu Nguyện chương trình tốt nghiệp kinh thánh tại gia Xin liên lạc email: VNFGMissions@yahoo.com

THÁCH THỨC ĐỨC TIN

Friday, September 3, 201012:00 AM(View: 8555)
thach_thuc_duc_tin
ĐỨC TIN LÀ GÌ ?
 
Hẳn không cần định nghĩa “Đức Tin” cho những người hiện diện trong đêm tháng Sáu oi bức đó. Đối với họ, đức tin gần như sờ chạm được. Họ vươn tới Thượng Đế gần như họ sắp ôm lấy thân thể Ngài. Đức tin trút hết sự phạm tội đã từng áp chế họ. Đức tin thay thế tuyệt vọng thành hy vọng. Đức tin dầm thấm họ trong mục tiêu và chiều hướng mới. Đức tin mở khóa các từng trời. Đức tin như nước mát đẫm ướt linh hồn cằn cỗi.

Nhưng đức tin không phải luôn luôn dễ dàng như vậy, cả đến những người thiết tha mong muốn. Một số người đói khát sự quyết chắc tâm linh, tuy nhiên có điều gì ngăn cản họ không được kinh nghiệm đó. Họ ao ước rằng họ có thể nếm thử kiểu tự do nầy, song nhiều chướng ngại đã ngăn chận các lối đi của họ. Những chống đối quấy phá họ. Những nghi ngờ trêu chọc họ. Trái tim họ muốn vươn lên Thượng Đế; song trí thức họ ràng chặt họ xuống để kềm giữ họ.

Đối với Charles Templeton – thật mỉa mai, từng là bạn thân và đồng công trên tòa giảng với Billy Graham – những câu hỏi về Thượng Đế đã khô cứng thành đối nghịch đắng cay với Cứu thế giáo. Giống như Graham, Templeton từng rao giảng hùng hồn trước những đám đông trong các vận động trường rộng lớn và kêu gọi hội chúng dấn thân cho Đấng Cứu Thế Jesus. Thậm chí một số người tiên đoán sau nầy Templeton có thể là một nhà truyền giáo che khuất Graham.

Nhưng việc đó đã lâu rồi. Trước khi xảy ra những câu hỏi què quặt nầy. Ngày nay đức tin của Templeton – bị liên tiếp xói mòn bởi những nghi ngờ triền miên và bất trị – đã mất mát. Có thể vĩnh viễn. Có thể lắm.
 
TỪ ĐỨC TIN ĐẾN NGHI NGỜ
 
Lúc đó vào năm 1949. Billy Graham 30 tuổi, đã không biết rằng Ông đang trên trên bờ vực để được phóng vào thế giới danh tiếng và ảnh hưởng. Thật mỉa mai, trong khi chính Ông sẵn sàng cho chuyến du giảng khai thông tại Los Angeles, thì Ông thấy chính mình bị giằng co trong trạng thái mông lung - không phải vì vấn đề thực hữu của Thượng Đế hay vấn đề thần tánh của Chúa Jesus, mà vì vấn đề căn bản là Ông có thể hoàn toàn tin cậy điều mà Kinh Thánh đã dạy Ông chăng?

Trong quyển tiểu sử tự thuật của Ông, Graham nói rằng Ông cảm thấy như đang bị căng ra trên một khung kéo. Một đầu kéo Ông đến Thượng Đế là Bà Henrietta Mears, một nhà giáo sáng chói và cảm thông Cứu thế giáo, là người uyên bác học thuật tân thời, và tin tưởng mạnh mẽ tính cách đáng tin của Kinh Thánh. Kéo Ông về bên kia là Charles Templeton 33 tuổi, người bạn đồng hành đồng giảng thân thiết của Graham.

Theo lời Templeton, 15 năm trước Ông đã trở nên tín đồ Cứu thế giáo khi Ông tự thấy ngày càng chán ngán với lối sống của Ông trong nhóm cá độ thể thao của Toronto Globe. Một đêm, vừa ra khỏi một câu lạc bộ thoát y bẩn thỉu, Ông cảm thấy ô uế và xấu hổ, Ông đi vào phòng mình, quì xuống cạnh giường, trong bóng tối.

“Thình lình,” về sau Ông nhớ lại, “như một tấm chăn đen phủ trên người tôi. Cảm nghĩ phạm tội tràn ngập thân thể và tâm trí tôi. Và chỉ mấy lời kêu lên: “Chúa ôi, hãy đến. Hãy đến...”

Rồi sau đó:

. . . Yên lặng giữa vùng phước hạnh tỏa khắp, tràn ngập, rạng ngời... Từ từ, một trọng lượng bắt đầu cất lên, một trọng lượng nặng như thân hình tôi. Nó đi qua hai bắp đùi tôi, lên bụng và ngực tôi, hai cánh tay và vai tôi, rồi biến mất. Một hơi ấm khó tả bắt đầu tuôn tràn trong thân tôi. Giống như một ngọn đèn được bật lên trong ngực tôi và thánh hoá tôi... Tôi không dám thở, sợ rằng điều nầy có thể phá hỏng hoặc chấm dứt giây phút đó. Và tôi nghe trong tôi tiếng thì thầm êm ái, lập đi lập lại: “Cảm ơn, Chúa. Cảm ơn. Cảm ơn. Cảm ơn.” Sau đó, trên giường, tôi nằm yên lặng giữa vùng phước hạnh tỏa khắp, tràn ngập, rạng ngời...”

Sau khi bỏ nghề báo để làm mục vụ, năm 1945 Templeton đã gặp Graham trong một cuộc truyền giảng “Tuổi Trẻ vì Đấng Christ.” Hai người là bạn chung phòng và luôn luôn đồng hành, thay phiên nhau trên bục giảng suốt chuyến phiêu lưu tại Âu châu. Templeton thành lập một Hội thánh, không lâu đã ngập thánh đường 1200 ghế. Tạp chí American nói rằng Ông “đặt một tiêu chuẩn mới cho cuộc truyền giảng đám đông.” Tình thân hữu của Ông với Graham gia tăng. Có lần Graham nói với người viết tiểu sử: “Templeton là một trong vài người yêu trong đời tôi.”

Nhưng chẳng lâu, những nghi ngờ bắt đầu gặm nhấm Templeton. Về sau Ông nhớ lại: “Tôi đã từng trải một kinh nghiệm cải hóa trong thời xuân xanh kỳ diệu. Tôi đánh mất những khả năng kiến thức và những huấn luyện thần học cần thiết để hỗ trợ các niềm tin của tôi khi – như không thể tránh – những câu hỏi và nghi ngờ bắt đầu quấy rầy tôi... Lý luận bắt đầu thách thức tôi và thỉnh thoảng bài bác các niềm tin trọng yếu trong đức tin Cứu thế giáo của tôi.”
 
MỘT CHIẾN THẮNG CỦA ĐỨC TIN
 
Bấy giờ, tương phản với Henrietta Mears đầy đức tin, Templeton hoài nghi, lôi kéo Billy Graham bạn mình ra khỏi những bảo đảm mà Henrietta thường lập lại, rằng Kinh Thánh thật đáng tin. Ông biện luận: “Billy, Anh đã lỗi thời 50 năm. Người ta không còn chấp nhận Kinh Thánh được ứng cảm như Anh đã nghĩ. Đức tin của Anh quá đơn sơ.”

Trông như Templeton đã thắng cuộc kéo co. Graham nhớ lại: “Nếu không thật sự nghi ngờ, thì tôi cũng đã bối rối.” Ông biết rằng nếu Ông không thể tin nơi Kinh Thánh, thì Ông không thể tiến tới. Chuyến du giảng tại Los Angeles – biến cố mở đường cho mục vụ toàn thế giới của Graham – đang treo trên một đòn cân.

Graham tìm kiếm những câu trả lời trong Kinh Thánh. Ông cầu nguyện, Ông suy gẫm. Cuối cùng, với một trái tim trĩu nặng, Ông thả bộ trên miền Núi San Bernandino dưới ánh trăng, mọi điều vọt lên tột điểm. Nắm lấy một quyển Kinh Thánh, Ông quỵ xuống đầu gối và xưng nhận rằng Ông không thể trả lời một số những câu hỏi triết lý và tâm lý mà Templeton và những người khác đã nêu lên.

Ông viết: “Tôi đã cố gắng để cảm thông với Thượng Đế, song có điều gì vẫn chưa thể nói ra. Sau cùng, Đức Thánh Linh giải thoát tôi được nói điều đó: ‘Thưa Cha, con sẽ chấp nhận điều nầy như Ngài đã phán – bằng đức tin! Con sẽ để đức tin vượt quá những câu hỏi và nghi ngờ của con, và con sẽ tin điều nầy là Lời cảm ứng của Cha.’”

Ông đứng lên, mắt đẫm lệ, Graham nói rằng Ông cảm thấy quyền lực của Thượng Đế trong khi Ông đã không nhận được trong nhiều tháng. Ông nói: “Không phải tất cả những câu hỏi của tôi đều được trả lời, song một nhịp cầu chính đã vượt qua. Bằng cả lòng và trí, tôi biết rằng một trận chiến tâm linh trong linh hồn tôi đã xảy ra, và tôi đã chiến thắng.”

Đối với Graham, đó là lúc xoay chiều. Dù vậy, đối với Templeton, đây là một ng quanh của các biến cố thất vọng đắng cay. Templeton đã tuyên bố: “Anh ấy tự hủy tri thức bằng cách khép kín tâm trí mình.” Cảm xúc nhiều nhất của Ông đối với bạn mình là sự thương hại. Bấy giờ, trên hai lối đi khác biệt, đời sống của hai người bắt đầu phân rẽ.

Lịch sử cho thấy việc gì xảy đến cho Graham trong những năm kế tiếp. Ông trở thành một nhà truyền giáo thuyết phục và hiệu quả nhất của thời hiện đại và một trong những người được ngưỡng mộ nhất trên thế giới. Còn việc gì xảy đến cho Templeton? Hủy hoại bởi những nghi ngờ, Ông từ nhiệm mục vụ và trở về Canada, nơi đây Ông trở thành một nhà bình luận và tiểu thuyết gia.

Lý luận của Templeton đã đánh mất đức tin của Ông. Nhưng, phải chăng đức tin và tri thức thật sự không tương hợp với nhau? Thể nào một tư tưởng gia đồng thời cũng là một tín đồ Kinh Thánh chăng? Một số người không tin như vậy.

George H. Smith, một người vô thần, khẳng định rằng: “Lý luận và đức tin đối nghịch nhau, hai danh từ dị biệt, không có sự hòa hợp hay cùng quan điểm. Đức tin là niềm tin không có, hoặc bất chấp, lý luận.”

W. Bingham Hunter, nhà giáo dục Cứu thế giáo thì có quan điểm trái ngược. Ông nói: “Đức tin là một đáp ứng lý trí đối với bằng chứng về sự khải thị chính Thượng Đế trong thiên nhiên, lịch sử nhân loại, Kinh Thánh, và Con phục sinh của Ngài.”

Đối với tôi, một người từng sống hầu hết cuộc đời vô thần, điều cuối cùng tôi muốn là một đức tin chân thật, lập trên một nền tảng như tờ giấy mỏng, với ý niệm đầy hy vọng hoặc tạo niềm tin. Tôi cần một đức tin nhất trí với lý luận, mà không mâu thuẫn với lý luận; tôi muốn những niềm tin căn cứ trên thực hữu, mà không tách rời thực hữu. Tôi cần tìm thấy, một lần dứt khoát, thử xem đức tin Cứu thế giáo có thể đứng vững với những cuộc khảo nghiệm cẩn trọng chăng?

Đây là dịp cho tôi đàm thoại diện đối diện với Charles Templeton.
 
TỪ MỤC VỤ ĐẾN THUYẾT BẤT KHẢ TRI .
 
Khoảng năm trăm dặm về phía bắc của địa điểm Billy Graham đang dàn dựng cho chiến dịch của Ông tại Indianapolis, tôi đi tìm Templeton đến một cao ốc tân thời trong khu trung lưu lân cận Toronto. Lên thang máy đến tầng 25, tôi gặp một cửa phòng ghi “Thượng Tầng Gia Cư,” và gõ cửa bằng tay nắm bằng đồng.

Tôi cầm nơi tay quyển sách mới nhất của Templeton mang tựa đề hiện rõ quan điểm tâm linh của Ông. Tên quyển sách: “Vĩnh Biệt Thượng Đế: Những Lý Do Khiến Tôi Từ Bỏ Đức Tin Cứu Thế Giáo.” Quyển sách to khắt khe tìm cách bươi móc các niềm tin Cứu thế giáo, tấn công thỏa thích rằng các niềm tin nầy “lỗi thời”, có thể bày tỏ không thật, và thường khi, trong nhiều cách biểu dương, tai hại cho cá nhân và xã hội.

Templeton phác họa một số hình ảnh trong khi Ông cố phá vỡ đức tin nơi Thượng Đế của Kinh Thánh. Nhưng đặc biệt, tôi bị xúc động bởi một đoạn nói về nỗi kinh hoàng của chứng bệnh Alzheimer, với những chi tiết gợi cảm, ghê gớm, mô tả phương cách xóa bỏ căn cước cá nhân ra khỏi con người bằng sự hủy hoại tâm trí và ký ức họ. Ông chất vấn, sao một Thượng Đế cảm thương lại cho phép một chứng bệnh kinh khiếp như vậy hành hạ các nạn nhân của nó và những người thương yêu của họ? 

Ông kết luận: “Câu trả lời thật đơn giản. Alzheimer’s sẽ không tồn tại, nếu có một Thượng Đế thương yêu. Và bởi nó còn đó, thêm một ít bằng cớ quả quyết rằng Thượng Đế không có. Đối với một người như tôi, là người mà cả gia đình bên vợ đã chịu khổ vì sự tàn phá ghê gớm của Alzheimer’s, thì đó là một luận cứ mang lại một trận đòn tình cảm đích đáng.”

Trong khi chờ đợi ngoài thềm của Templeton, tôi không chắc sẽ gặp điều gì. Ông sẽ chiến đấu như con người Ông trong sách? Ông sẽ cay đắng đối với Billy Graham? Ông sẽ để yên cho qua cuộc phỏng vấn? Hai ngày trước, khi Ông chấp thuận qua điện thoại ngắn ngủi, Ông mập mờ nói rằng sức khỏe Ông không được tốt.

Madeleine Templeton, chăm sóc vườn hoa trên sân thượng xong, mở cửa và thân mật chào tôi. Bà nói: “Tôi biết Ông đến từ Chicago xa xôi, nhưng Charles lại bệnh nặng, xin lỗi tôi phải nói thế.”
Tôi đề nghị: “Tôi có thể trở lại lần khác.”
Bà nói: “À, chờ xem Ông ấy cảm thấy thế nào?” Bà đưa tôi lên một chiếc cầu thang trải thảm đỏ, vào một gian phòng sang trọng, hai con chó lớn lông xù xoắn xuýt dưới chân Bà. “Anh ấy đang ngủ...”
Ngay lúc đó, ông chồng tám mươi ba tuổi của Bà từ phòng ngủ bước ra. Ông khoác một chiếc áo choàng nhẹ màu nâu đậm bên ngoài bộ đồ ngủ cùng màu. Chân mang đôi dép đen. Mái tóc xám mỏng của Ông hơi xốc xếch. Ông gầy và tái, dù đôi mắt xanh của Ông vẫn minh mẫn và linh động. Ông lễ độ giơ bàn tay ra để được nắm lấy.
 “Xin thứ lỗi.” Ông nói trong lúc khai thông cuống họng, “nhưng tôi không được khỏe.” Rồi Ông thản nhiên nói tiếp: “Thật ra, tôi đang hấp hối.”
Tôi hỏi: “Việc gì vậy?”
Câu trả lời của Ông gần như quật tôi ngã xuống chân Ông.

Ông đáp: “Bệnh Alzheimer.”
Tâm trí tôi quay lại điều Ông đã viết về Alzheimer, đây là chứng cớ không có Thượng Đế; bất chợt, tôi nhận thức được ít nhất một số động lực cho quyển sách của Ông.
Ông nói: “Tôi đã có, xem nào..., nó đã được ba năm?” Ông nhíu mày và quay sang vợ Ông nhờ giúp. “Đúng không, Madeleine?”
Bà gật đầu: “Vâng, ba năm.”
Ông nói: “Trí nhớ tôi không còn như trước. Và, như Anh có thể biết, Alzheimer luôn luôn nguy hiểm. Luôn luôn. Nghe thảm thương, nhưng thật sự tôi đang bị hủy hoại. Sớm hay muộn, nó sẽ giết tôi. Nhưng trước hết nó cướp trí não tôi.” Ông cười yếu ớt. “Nó đã bắt đầu. Tôi lo sợ. Madeleine có thể chứng nhận điều đó.”
Tôi nói: “Nầy, Xin lỗi tôi phải chen vào. Nếu anh không cảm thấy đến nỗi...”Nhưng Templeton vẫn khăng khăng. Ông đưa tôi vào phòng khách, trang hoàng rực rỡ kiểu hiện đại, nắng chiều tràn ngập qua những cửa kính, rộng nhìn toàn diện quang cảnh thành phố. Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế nệm sát nhau, và chỉ trong vài phút, Templeton dường như lấy lại tiềm năng tươi mới.
Ông nói: “Tôi đoán rằng Anh muốn tôi giải thích làm sao tôi đã bước từ mục vụ sang chủ thuyết bất khả tri.” Với điều nầy, Ông khởi sự mô tả những biến cố dẫn tới sự tiêu hủy đức tin của Ông nơi Thượng Đế.
Đó là điều tôi đã mong đợi. Nhưng tôi không thể tiên đoán cuộc hội đàm của chúng tôi sẽ chấm dứt như thế nào?
 
 
(Kỳ tới: “Năng Lực của một Tấm ảnh”)
Trích dịch từ “The Case of Faith” của Lee Strobel
Send comment
Your Name
Your email address
heresa Briones là một hiền mẫu dễ thương. Bà cũng có một cú móc tay trái mạnh bạo, Bà đã dùng để đấm một phụ nữ trong một tiệm giặt tự động. Sao Bà phải làm thế? Một số nhóc con trêu chọc Alicia, con gái của Bà. Alicia hói tóc. Đầu gối viêm khớp. Mũi bẹp dí. Xương hông teo xọp. Thính giác nghễnh ngãng. Em có hình dạng của một cụ 70. Nhưng em chỉ mới lên 10. “Mẹ ơi,” Lũ nhóc kêu nhạo, “đến đây xem con quái vật!” Alicia chỉ nặng 22 cân Anh và thấp hơn hầu hết trẻ con lớp vườn trẻ. Em đau khổ vì chứng sớm lão hóa – một bệnh cằn cỗi di thể, chỉ một đứa mắc phải trong số 8 triệu trẻ con. Các nạn nhân lão hóa hy vọng sống được 20 năm. Chỉ có 15 trường hợp về bịnh nầy được biết trên thế giới.
“Phước cho những kẻ nghèo khổ tâm linh, vì Vương quốc Thiên Đàng thuộc về họ.” (Mat. 5:3) Hãy bắt đầu bằng câu chuyện thương lượng của một người trẻ giàu sang trong Tân Ước. Anh là một người giàu. Mang giày Italia. Y phục thời trang. Tiền bạc anh đầu tư. Thẻ tín dụng của anh loại vàng. Anh sống như anh đi phi cơ – loại hạng nhất. Anh còn trẻ. Anh trút hết mỏi mệt trong phòng thể dục và dễ dàng thả rơi tuổi già qua rổ bóng trên sân chơi. Bụng anh bằng phẳng. Mắt anh sắc bén. Sinh lực là nhãn hiệu của anh, và sự chết thì còn xa vô tận.
Nàng có mọi lý do để cay đắng. Dù tài hoa, Nàng đã bị lãng quên trong nhiều năm. Các giới nhạc kịch nổi tiếng khép lại những danh vị khi nàng thử bước vào. Các nhà phê bình Mỹ quốc quên đi tiếng hát kích động của nàng. Nhiều lần nàng bị từ chối những cơ hội mà nàng dễ dàng thành đạt. Chỉ sau khi trở về từ Âu châu và chiếm được trái tim thính giả Âu châu khó tính, các nhà lãnh tụ dư luận trong nước mới chấp nhận tài năng của nàng.
Nếu trong một ngày, Chúa Jesus phải trở thành con người của Bạn, thì sao? Điều gì xảy ra nếu, trong 24 giờ, Chúa Jesus thức dậy trên giường của Bạn, bước đi trong đôi giày của Bạn, sống trong nhà Bạn, làm việc theo chương lịch của Bạn? Xếp của Bạn trởthành xếp của Ngài, mẹ của Bạn trở thành mẹ của Ngài, những đau đớn của bạn trở thành những đau đớn của Ngài? Ngoại trừ một điều, cuộc đời Bạn không gì thay đổi. Sức khỏe Bạn không thay đổi. Những hoàn cảnh của Bạn không thay đổi. Chương lịch của Bạn không thay đổi. Các vấn đề của Bạn không giải quyết.
Việc gì xảy ra, nếu một người nào đó phải thu một phim tài liệu về bàn tay Bạn? Việc gì xảy ra, nếu một nhà sản xuất phải thuật câu chuyện về bàn tay Bạn? Chúng ta sẽ thấy gì? Hết thảy chúng ta đều sớm học được rằng bàn tay tiện dụng cho nhiều điều khác hơn là dùng cho sự sống thoát – đó là một phương tiện biểu lộ tình cảm. Cùng một bàn tay, có thể trợ giúp hay tổn thương, vươn ra hay siết lại, nâng một người lên hay ném một người xuống. Nếu Bạn phải trình chiếu phim tài liệu nầy cho bạn bè xem, Bạn sẽ tự hào về những giây phút: bàn tay Bạn đưa ra một món quà, đặt một chiếc nhẫn vào ngón tay người khác, chăm sóc một vết thương, sửa soạn một bữa ăn, hay chấp lại để cầu nguyện.
Ngồi nơi bàn viết vĩ đại, Tác Giả mở một quyển sách lớn. Quyển sách không một ngôn từ. Sách không ngôn từ vì ngôn từ chưa có. Ngôn từ chưa có vì ngôn từ chưa cần thiết. Chưa có tai để nghe chúng; chưa có mắt để đọc chúng. Chỉ một Tác Giả. Vậy nên Tác Giả cầm một cây bút vĩ đại, khởi sự viết. Như một họa sĩ gom góp màu sắc, một nhà điêu khắc chọn lấy dụng cụ, Tác Giả ráp dựng những ngôn từ . Có ba thứ. Ba ngôn từ đơn độc. Từ ba ngôn từ nầy sẽ tuôn ra hằng triệu tư tưởng.Nhưng,câu chuyện lơ lửng trên ba ngôn từ nầy. Tác Giả cầm bút, rồi xướng lên ngôn từ đầu tiên: "T-H-Ờ-I G-I-A-N." Thời gian chưa có cho tới khi Tác Giả viết nó ra. Ngài, chính Ngài, vô thời gian, song câu chuyện của Ngài đóng khung trong thời gian.
Williams Rathje thích rác rến. Nhà sưu khảo giáo dục Đại học Harvard nầy tin rằng chúng ta có thể học hỏi rất nhiều từ những đống rác của thế gian. Các nhà khảo cổ luôn luôn quan sát rác rến để nghiên cứu một xã hội. Rathje cũng làm vậy; Ông không mất thời gian chờ đợi. Đồ Án Rác Rến, là danh hiệu tổ chức của Ông, du hành khắp lục địa, đào xới những bãi rác và nghiên cứu các thói quen ăn uống của chúng ta, kiểu cách trang phục, cùng mức độ kinh tế. Rathje có thể tìm được ý nghĩa trong rác rến của chúng ta.
Thập Tự Giá. Bạn có thể nhìn quanh bất cứ phương hướng nào mà không thấy một thập giá? Chót vót trên đỉnh một thánh đường. Tạc khắc trong một bia mộ. Chạm trổ vào một chiếc nhẫn, hay lủng lẳng dưới một dây chuyền. Thập giá là một biểu hiệu phổ thông Cứu thế giáo. Một lựa chọn lạ lùng, Bạn có nghĩ thế chăng? Lạ lùng vì một dụng cụ hành hình có thể trở thành tiêu biểu cho một trào lưu hy vọng. Những biểu hiệu của các niềm tin khác thì lạc quan hơn: ngôi sao có sáu góc nhọn của Jerusalem, mặt trăng lưỡi liềm của Islam, một hoa sen nở của Phật giáo.
"Người sẽ không bẻ gẫy một cọng sậy đã bầm giập, và sẽ không ngắt bỏ một ngọn bấc sắp tàn." (Mat. 12:20) Có vật chi mong manh hơn một cọng sậy đã bầm giập? Hãy nhìn một cọng sậy bầm giập bên mé nước. Một thân mảnh mai từng ngất ngưởng trên đám cỏ sông rậm rạp, giờ đây nghiêng ngả, gục đầu. Bạn có phải là một cọng sậy bầm giập? Phải chăng từ lâu Bạn vẫn hiên ngang và kiêu hãnh? Bạn đứng ngay thẳng và vững vàng, nuôi dưỡng bằng những dòng nước mát, và bám rễ trong lòng sông tin tưởng. Rồi một điều nào đó xảy đến. Bạn bị bầm giập...
Rất nhiều bộ sách tài liệu cho thấy có những phương tiện khác nhau trong đó con người đã cố thử tìm cầu sự tiếp trợ từ Thượng Đế. Làm điều nầy, con người đã cho phép trí tưởng tượng của mình tự do sản xuất đủ loại hình tượng và ảnh tượng với ý nghĩa tượng trưng hoặc thay thế Thượng Đế. Hành động nầy được chính thức gọi là sự “tôn thờ thần tượng.” Trước khi Moses qua đời, Ông nói: “...Các ngươi đã thấy những ghê tởm của chúng nó, các thần tượng của chúng nó, bằng gỗ và đá, bạc và vàng, trong vòng chúng nó”