Wednesday
9
October
2024
(View: 41750)
Hội Thánh Phúc Âm - 14381 Magnolia St. Westminster, CA 92683 (NorthWest corner of Magnolia/Hazard). Liên lạc: vuxh2916@gmail.com
(View: 42431)
Kính Chúc Quý Thân Hữu & Giáo Hữu Cùng Toàn Thể Quý Thân Quyến một năm mới tràn đầy Thiên Ân & Thiên Phước ban từ Đấng Cứu Thế Jesus.
(View: 42644)
Cầu Nguyện chương trình tốt nghiệp kinh thánh tại gia Xin liên lạc email: VNFGMissions@yahoo.com

Sự Sờ Chạm Của Thượng Đế

Monday, September 20, 201012:00 AM(View: 7247)

MỘT TRÁI TIM THƯƠNG CẢM

Việc gì xảy ra, nếu một người nào đó phải thu một phim tài liệu về bàn tay Bạn? Việc gì xảy ra, nếu một nhà sản xuất phải thuật câu chuyện về bàn tay Bạn? Chúng ta sẽ thấy gì? Hết thảy chúng ta đều sớm học được rằng bàn tay tiện dụng cho nhiều điều khác hơn là dùng cho sự sống thoát – đó là một phương tiện biểu lộ tình cảm. Cùng một bàn tay, có thể trợ giúp hay tổn thương, vươn ra hay siết lại, nâng một người lên hay ném một người xuống. Nếu Bạn phải trình chiếu phim tài liệu nầy cho bạn bè xem, Bạn sẽ tự hào về những giây phút: bàn tay Bạn đưa ra một món quà, đặt một chiếc nhẫn vào ngón tay người khác, chăm sóc một vết thương, sửa soạn một bữa ăn, hay chấp lại để cầu nguyện. Rồi còn những quang cảnh khác: Hình ảnh những ngón tay cáo tội, những nắm tay hà lạm. Những bàn tay thường lấy vào nhiều hơn cho ra, đòi hỏi thay vì dâng hiến, tổn thương hơn là yêu thương. Ôi, năng lực bàn tay chúng ta. Không khéo điều động, bàn tay trở thành những vũ khí: cấu xé cho quyền lực, bóp nghẹt để sống còn, mơn trớn để thỏa mãn. Song khéo điều động, bàn tay chúng ta trở thành những dụng cụ ân điển – không phải chỉ là dụng cụ trong tay Thượng Đế, mà chính bàn tay Thượng Đế. Hãy cung hiến chúng, thì bộ phận năm ngón nầy sẽ trở thành bàn tay thiên thượng.

Đó là điều mà Chúa Jesus đã làm. Đấng Cứu độ chúng ta đã cung hiến trọn vẹn bàn tay Ngài cho Thượng Đế. Hình ảnh tài liệu về bàn tay Ngài không có những cảnh bám lấy tham vọng hay ngón tay chỉ trích. Dù vậy, nhiều hình ảnh khác liên tiếp hiện ra, những con người chờ đợi bàn tay cảm thương của Ngài sờ chạm: các phụ mẫu bồng con trẻ, kẻ nghèo mang những lo sợ, tội nhân gánh vác âu sầu. Người nào đến thì được sờ chạm. Và người nào được sờ chạm thì biến đổi. Nhưng không ai được sờ chạm hay biến đổi hơn một người phung vô danh trong sách Phúc âm Matthew 8:

Khi Chúa Jesus đi xuống khỏi đồi, những đám đông lớn theo Ngài. Sau đó, một người mang chứng bịnh ngoài da đến cùng Chúa Jesus. Người sấp mình xuống trước Ngài, rồi nói: “Thưa Chúa, Ngài có thể chữa lành cho tôi, nếu Ngài muốn.” Chúa Jesus giơ tay ra, sờ vào người, rồi phán: “Ta muốn, hãy được lành!” Tức thì, người ấy được lành bịnh. Xong, Ngài phán với người: “Chớ thuật chuyện nầy với bất cứ ai. Song hãy đi và trình diện chính ngươi cùng thầy tế và dâng một của lễ như Moses đã truyền cho những người được lành bệnh. Điều nầy sẽ cho dân chúng thấy việc Ta đã làm.” (Mat. 8:1-4)

Các Thánh đồ Mark và Luke cũng thuật câu chuyện nầy. Nhưng, xin được tạ lỗi cùng ba Nhà Ký thuật, tôi phải nói rằng không người nào thuật lại đầy đủ. Ôi, chúng ta biết chứng bệnh của người nầy và quyết định của anh ta, song phần còn lại như thế nào? Chúng ta bị bỏ lửng với nhiều dấu hỏi. Những người viết không cho biết tên, không tiểu sử, không mô tả nào khác.

SỰ RUỒNG BỎ TỘT CÙNG.

Đôi khi tính hiếu kỳ của tôi vọt lên tuyệt đỉnh, và tôi lạ lùng kêu lên. Vậy tôi sắp làm gì đây – lạ lùng kêu lên về con người nhận được sự sờ chạm cảm thương từ Chúa Jesus. Người xuất hiện một lần, một lời thỉnh cầu, và nhận một sờ chạm. Nhưng một lần sờ chạm đó thay đổi vĩnh viễn cuộc đời người. Và tôi lạ lùng nếu câu chuyện của người diễn ra như sau:

Đã năm năm không ai sờ đến tôi. Không ai. Không một người nào. Vợ tôi, không. Con tôi, không. Bạn bè cũng không. Không ai sờ đến tôi. Họ thấy tôi. Nói chuyện với tôi. Tôi cảm biết tình thương trong tiếng nói của họ. Tôi thấy sự quan tâm trong đôi mắt họ. Nhưng tôi không thấy họ sờ chạm. Không một sờ chạm nào. Một lần cũng không. Không ai sờ đến tôi.

Tôi ao ước, những gì Bạn thường làm? Những bắt tay. Những vòng tay ấm áp. Một vỗ vai cho tôi chú ý. Một nụ hôn trên môi để chiếm một trái tim. Những giây phút đó đã rời khỏi thế giới tôi. Không ai sờ đến tôi. Không ai chạm vào tôi. Cái mà tôi có thể sẵn sàng để được đụng tới, để nhận được trong đám đông, là vai tôi được cọ vai người khác. Nhưng đã năm năm, điều đó không hề xảy ra. Sao vậy? Tôi không được phép đi trên đường phố. Thậm chí các đạo sĩ cũng tránh xa tôi. Tôi không được phép vào nhà hội của tôi. Cũng không được tiếp đón trong chính nhà tôi. Tôi là người không thể sờ chạm. Tôi là một người phung. Và không ai sờ đến tôi. Cho tới ngày nay.

Tôi lạ lùng về người nầy, bởi trong thời Tân Ước, cùi phung là một bệnh ghê tởm nhất. Bệnh trạng biến thân người thành một khối lở loét và ung thối. Những ngón tay cong vẹo, gồ ghề. Những u mụt trên da bạc màu, hôi hám. Trong Kinh Thánh, người phung là tượng trưng cho sự ruồng bỏ tột cùng: nhiễm độc bởi một tình trạng mà người không tìm, bị từ chối bơi những người từng biết, bị xa lánh bởi những kẻ không hề quen, bị kết án vào một tương lai mà người không chịu nổi. Và, ký ức của mỗi người bị ruồng bỏ, là ngày người bưộc phải đối diện với sự thật: đời sống sẽ không còn như thế. Một năm kia, suốt mùa gặt, tay cầm lưởi hái của tôi dường như yếu đi. Các đầu ngón tay tôi tê cứng. Ban đầu một ngón, rồi một ngón khác. Trong một thời gian ngắn, tôi có thể nắm lấy dụng cụ, song ít khi cảm giác. Đến cuối mùa gặt, tôi không còn cảm giác nữa. Bàn tay nắm cán lưởi hái, như thuộc về kẻ khác – cảm giác không còn nữa. Tôi không nói gì với vợ tôi, song tôi biết nàng nghi một điều gì. Sao nàng không the biết được? Tôi ôm tay vào người tôi như một con chim bị hương. Một buổi chiều, tôi nhúng tay vào chậu nước rửa mặt. Nước trở màu đỏ. Ngón tay tôi chảy máu, máu chảy không ngừng. Tôi vẫn chưa biết rằng tôi bị thương. Làm sao tôi tự cắt mình? Bằng một lưởi dao? Phải chăng tay tôi đã lướt trên một cạnh sắt bén? Cỏ lẻ vậy, nhưng tôi không cảm thấy gì cả.

“Máu cũng dính trên quần áo anh,” tiếng nói dịu dàng của vợ tôi. Nàng đứng sau lưng tôi. Trước khi nhìn nàng, tôi nhìn xuống những chấm đỏ thẩm trên áo tôi. Trong một thời gian dài nhất, tôi đứng bên cạnh chậu, đăm nhìn tay tôi. Dù sao, tôi biết đời tôi tàn tạ vĩnh viễn. Vợ tôi hỏi: “Em sẽ đi với anh để trình cùng thầy tế?” Tôi thở dài: “Không, Anh sẽ đi một mình.” Tôi quay lại, nhìn vào mắt đẫm ướt của nàng. Đứa con gái ba tuổi của chúng tôi đứng cạnh mẹ nó. Tôi ngồi bẹp xuống, ngắm nhìn mặt nó, vuốt ve trên má nó, không nói lời nào. Tôi có thể nói gì? Tôi đứng lên, rồi lại nhìn vợ tôi. Nàng sờ vai tôi, và với bàn tay còn lành mạnh, tôi sờ tay nàng. Đó là lần sờ chạm cuối cùng của chúng tôi. Năm năm qua, từ đó đến nay, không người nào sờ đến tôi. Thầy tế không sờ tôi, Ông nhìn tay tôi, bấy giờ quấn trong một miếng giẻ. Ông nhìn mặt tôi, bấy giờ tăm tối trong u buồn. Tôi không bao giờ oán trách điều Ông nói. Ông chỉ làm điều Ông được dạy. Ông che miệng lại và giơ tay ra, lòng bàn tay hướng về trước. Ông nói với tôi:“Ngươi bị ô uế.” Chỉ một lời tuyên bố, tôi mất cả gia đình, trang trại, tương lai, và bạn bè tôi.

Vợ tôi chờ tôi tại cổng thị trấn với một túi quần áo, bánh và những đồng tiền. Nàng không nói gì. Bấy giờ bạn bè đã tụ lại. Điều tôi thấy trong mắt họ có thể tiên đoán là điều mà tôi thấy được trong mọi cặp mắt: sự thương hại trong ghê sợ! Khi tôi bước ra, họ lùi lại. Nổi kinh hoàng của họ vì chứng bệnh của tôi, lớn hơn sự quan tâm của họ cho trái tim tôi – vậy nên từ đó, họ cũng như mọi người khác mà tôi gặp, đều lùi bước.

Xua đuổi một người phung, trông như khắc nghiệt, không cần thíêt. Dù vậy, Đông phương thời cổ không là nền văn hóa duy nhất cô lập những người tổn thương. Chúng ta không thể thiết lập những biệt khu hay che miệng chúng ta trước mặt họ, song chắc hẳn chúng ta đã xây những bức tường và bịt mắt chúng ta lại. Và con người không cần phải cùi phung mới cảm thấy bị xua đuổi!

Người ly dị cảm biết điều nầy. Người tật nguyền cũng thế. Người thất nghiệp có cảm nghĩ đó, cùng những kẻ thất học. Một số xa lánh những người làm mẹ không hôn nhân. Chúng ta cách biệt những kẻ thất vọng và tránh khỏi những người bịnh nan y. Chúng ta có khu lân cận cho những người định cư, trại dưỡng lão cho những người già, trường học cho những người thiếu hiểu biết, các trung tâm cho những kẻ nghiện ngập, và nhà tù cho những tội nhân.

Phần sót lại là những người cố tránh xa tất cả. Chỉ có Thượng Đế mới biết bao nhiêu người tự nguyện lưu vong – những cá nhân sống những cuộc đời thầm lặng, cô đơn, nhiểm độc vì lo sợ bị chối từ và bởi những ký ức mà họ cố thử lần sau cùng. Họ phải chọn, thà không được sờ chạm, hơn là thêm tổn thương.

Ôi, làm sao tôi tránh được những kẻ nhìn thấy tôi. Năm năm bệnh phung đã khiến tay tôi co quắp. Các đầu ngón tay tôi cụt mất, cùng những phần trên vành tai và lổ mủi tôi. Khi thấy tôi, những người cha túm lấy con mình. Các bà mẹ che mặt lại. Những đứa bé chỉ trỏ và trố mắt nhìn.

Những miếng giẻ trên thân tôi không thể che những đau đớn. Tấm băng trên mặt tôi cũng không che được cơn điên loạn trong mắt tôi. Tôi không còn muốn che đậy chúng. Đã bao nhiêu đêm, tôi vung vẩy nắm tay tàn tật của tôi lên vùng trời im lặng? “Tôi đã làm gì mà đáng chịu cảnh nầy?” Nhưng, chưa bao giờ được giải đáp.

Một số nghĩ rằng tôi phạm tội. Một số nghĩ rằng cha mẹ tôi phạm tội. Tôi không biết. Hết thảy những điều tôi biết là tôi càng mõi mệt vì tất cả: ngủ trong biệt khu, ngửi mùi hôi thúi, Tôi càng mõi mệt vì cái chuông nhục nhã mà tôi phải đeo quanh cổ để cảnh giác người khác về sự hiện diện của tôi. Như thể tôi cần nó vậy. Một thoáng nhìn, liền có những lời rao báo vang lên: “Ô uế! Ô uế! Ô Uế!”

Đã mấy tuần qua, tôi liều đi trên đường về làng tôi. Tôi không có ý vào làng. Có trời biết rằng tôi chỉ muốn nhìn lại những cánh đồng của tôi. Ngắm xem ngôi nhà tôi. Và may ra, thấy được mặt vợ tôi. Tôi không thấy nàng. Nhưng tôi thấy một số trẻ con rộn rịp trong đồng cỏ. Tôi nấp sau một thân cây và xem chúng chạy nhảy, nô đùa. Mặt chúng thật vui tươi và tiếng cười của chúng dễ lây đến độ trong chốc lát, chỉ trong chốc lát, tôi không còn là một người phung. Tôi là một nông dân. Tôi là một người cha. Tôi là một con người.

Tan chảy trong niềm vui của chúng, tôi bước ra từ phía sau thân cây, tôi đứng thẳng lên, thở một hơi dài... và chúng thấy tôi. Trước khi tôi có thể lẩn tránh, chúng đã thấy tôi. Chúng kêu thét lên. Rồi chúng tản lạc. Tuy nhiên, có một đứa chần chờ, phía sau những đứa kia. Nó dừng lại và nhìn về hướng tôi. Tôi không biết. Tôi không thể nói chắc, song tôi nghĩ, tôi thật sự nghĩ rằng, cô bé ấy là con gái tôi. Và tôi không biết, tôi thật sự không thể nói chắc. Nhưng tôi nghĩ rằng cô bé ấy đang tìm cha nó.

Cái nhìn đó là điều khiến tôi bước tới những bước hôm nay. Tất nhiên, điều đó thật liều lĩnh. Tất nhiên điều đó thật mạo hiểm. Nhưng, tôi phải mất mát gì? Ngài tự xưng là Con Thượng Đế. Hoặc Ngài sẽ nghe lời than phiền của tôi và giết tôi, hay chấp nhận lời yêu cầu của tôi và chữa lành cho tôi. Ấy là những ý nghĩ riêng tôi. Tôi đến với Ngài như một người thách thức. Được thúc giục không bởi đức tin, song bởi căm hờn tuyệt vọng. Thượng Đế đã giáng họa nầy trên thân tôi, thì Ngài sẽ hoặc sửa chữa nó hay chấm dứt nó.

Nhưng sau đó tôi thấy Ngài, và khi tôi thấy Ngài, tôi được thay đổi. Bạn phải nhớ, tôi là một nông dân, không phải một thi sĩ, vậy tôi không thể tìm đủ lời để diễn tả điều tôi thấy. Hết thảy điều tôi có thể nói là những buỗi sáng trên đất Judea đôi khi thật mát mẻ, và khi ánh dương lên thật huy hoàng đến độ nhìn đến chúng thì quên hết sự nóng nảy của ngày hôm qua và sự tổn thương trong thời quá khứ. Khi tôi nhìn mặt Ngài, tôi thấy một buỗi sáng Judea.

Trước khi tôi nói, tôi biết Ngài chăm sóc. Dù sao, tôi biết Ngài rất ghét bệnh nầy – không khác nào tôi thù hận nó. Cơn điên loạn của tôi trở thành trông cậy, và cơn giận dữ của tôi trở thành hy vọng. Núp sau một tảng đá, tôi nhìn Ngài đi xuống một ngọn đồi. Hằng dãy người lũ lượt theo sau Ngài. Tôi chờ đến khi Ngài cách tôi mấy bước, rồi tôi bước ra: “Thưa Thầy!”

Ngài dừng lại và nhìn về hướng tôi, cũng như hằng tá người khác. Một luồng kinh hải tràn qua đám đông. Những bàn tay bay lên trước những gương mặt. Trẻ con chạy núp sau lưng cha mẹ. Một người nào đó kêu lên: “Ô uế!” Lại một lần nữa, tôi không buồn trách họ. Tôi là một khối hỗn độn tử thi. Nhưng tôi ít khi nghe chúng. Tôi ít khi nhìn chúng. Tôi từng thấy sự kinh khiếp của chúng cả ngàn lần. Dù vậy, lòng thương cảm của Chúa, tôi chưa hề thấy. Mọi người lùi lại, ngoại trừ Ngài. Ngài bước đến tôi. Đến cùng tôi.

Năm năm qua, vợ tôi đã bước đến tôi. Nàng là người cuối cùng làm thế. Bây giờ Ngài làm điều đó. Tôi không di động. Tôi chỉ nói: “Lạy Chúa, Ngài có thể chữa lành tôi, nếu Ngài muốn.” Phải chăng Ngài chữa lành tôi bằng một lời nói, tôi thật sung sướng. Phải chăng Ngài chữa lành tôi bằng sự cầu nguyện, tôi thật vui mừng. Nhưng Ngài không thỏa lòng đơn sơ nói chuyện với tôi. Ngài đến gần tôi. Ngài sờ người tôi. Năm năm trước, vợ tôi đã sờ đến tôi. Từ lúc đó, không ai chạm người tôi. Cho tới ngày nay.

“Ta muốn.” Những lời của Ngài dịu dàng như sự sờ chạm của Ngài. “Hãy được lành!”

Năng lực tuôn tràn trong người tôi, như nước chảy qua những luống cày trong một thữa ruộng. Trong giây phút, trong chốc lát, tôi cảm thấy hơi ấm nơi đã từng tê cóng. Tôi cảm thấy sức lực nơi đã từng mòn mỏi. Lưng tôi thẳng đứng, và đầu tôi ngẩng lên. Nơi mà trước kia tầm mắt tôi chỉ nhìn ngang thắt lưng họ, nay tôi đứng lên, tầm mắt tôi đối diện Ngài. Gương mặt tươi cười của Ngài.

Hai lòng bàn tay Ngài ôm lấy gò má tôi và kéo tôi lại gần đến độ tôi có thể cảm thấy ấm áp trong hơi thở Ngài, và nhìn thấy đôi mắt Ngài long lanh: “Chớ nói với bất cứ ai về việc nầy. Song hãy đi và trình diện chính ngươi cho thầy tế, rồi dâng một của lễ như Moses đã truyền cho những người được chữa lành. Điều nầy sẽ cho dân chúng thấy việc Ta đã làm.”
Send comment
Your Name
Your email address
“Nầy, Ngài ngự đến trong những đám mây, mọi con mắt sẽ trông thấy Ngài, thậm chí những kẻ đã đâm Ngài, cùng hết thảy các dân tộc trên đất sẽ kêu khóc vì cớ Ngài. Thật vậy, Amen. Chúa phán: “Ta là Alpha và Omega, nguyên khởi và cuối cùng, là Đấng Toàn Lực hiện có, đã có, và sẽ đến” (Khải thị 1:7-8). Thánh Thi 89:6 cũng nói tiên tri về sự tái lâm của Ngài: “Bởi trên thiên thượng, ai có thể sánh với CHÚA? Ai trong những con trai của các thần có thể giống như CHÚA?” Chúa Jesus sẽ trở lại
Ngài August Winning, vị Tổng thống tiền nhiệm Đông Phổ (East Prussian), cũng là một nhà lãnh đạo công nhân có lương tâm, đã nói rằng: “Tôi đã rảo một vòng rộng lớn để tránh Đấng Christ, song lần hồi tôi đến gần Ngài hơn. Tôi đã thấy người đời ngày càng đắm chìm trong xấu xa, và tôi cũng không thấy một ngoại lệ. Không phải mọi người đều phạm tội hình sự, song mọi người đều có những ý tưởng, những ham muốn và những dục vọng trầm trọng không khác tội giết người.
Cứu Thế Giáo là gì? Ngày nay, một Tín đồ Cứu Thế Giáo chân chính xứng đáng như thế nào? Voltaire (Đại văn hào Pháp) tự xưng là một người vô thần. Vua Friedrich Đại đế Đức quốc có lần hội kiến với Ông, và khi nâng ly, Voltaire ngạo nghễ nói rằng: “Tôi sẽ đổi phương vị của tôi trên Thiên đàng để lấy một đồng tiền Prussian.” Yên lặng phủ trùm gian phòng cho tới khi một Vị khách khác trong cung Vua Friedrich quay sang Voltaire, và nói: “Chúng tôi có một điều luật tại Prussia, theo điều luật nầy người nào muốn bán một vật chi, trước nhất phải chứng minh rằng vật đó thật sự thuộc về mình. Vậy Ông có thể chứng minh rằng Ông có một chỗ trên Thiên đàng chăng?”
Cái chết trong tháng Tư tại Iraq của ký gỉa Davis Bloom thuộc cơ quan truyền thông NBC là một cú xốc cho nhiều khán gỉa truyền hình Hoa kỳ. Đây là một nhân vật qua bộ phim truyền hình “Today,” hoặc qua Toà Bạch Ốc, thường xuyên có mặt tại phòng khách trong nhà chúng ta. Ông tường thuật các biến cố từ Bosnia, Somalia, Israel, Kuwait, Pakistan, cả đến hai cao ốc ở New York bị triệt hạ. Trong đám táng Bloom, các bạn hữu và cọng sự viên thân nhất của Ông, nói rằng Ông đã mang phiêu lưu, khôi hài và thiện cảm vào truyền hình. Bây giờ, Ông đột ngột biến mất.
Hơn 75 năm qua, Henry Luce muốn tìm một danh từ, vỏn vẹn một chữ, cho một tuần san tin tức, danh từ đó phải mô tả những biến cố đã xảy ra trong ngày. Ông đã chọn chữ “Thời.” Kinh Thánh dạy rằng: “Thời gian trong cuộc đời chúng ta là 70 năm” (Thánh Thi 90:10) . Thời gian là một nhiệm mầu. Chúng ta cảm biết thời gian trôi qua trong năng thức. Chúng ta đo lường thời gian diễn tiến bằng những cơ cụ chỉnh bị tinh vi. Chúng ta đánh dấu thời gian chóng bay, và chúng ta đọc được ký ức mà thời gian để lại phía sau. Song, một điều chúng ta không thể làm, là định nghĩa thời gian.
Kinh Thánh có hằng ngàn điều hứa cho chúng ta để cầu xin và áp dụng trong cuộc đời chúng ta. Tuy nhiên, một số người trong chúng ta sống như Thượng Đế chẳng hứa lời nào. Chúa Jesus phán: “Hỡi những kẻ rồ dại và lòng chậm tin” (Luke 24:25). Chúng ta đọc trong I Corinthians: “Chớ ai tự dối mình. Nếu người nào trong anh em tưởng mình khôn ngoan trong thiên hạ, thì hãy trở nên rồ dại, để mình có thể khôn ngoan.
Trong Mùa Giáng Sinh năm nay một người bạn gởi dến chúng tôi một bài thơ của một Thi sĩ mang tên Rumi. Điều 1ý thú là Rumi một tín đồ Hồi giáo Sufi từ thế kỷ 13, sanh ra và chết trong các miền đất ngày nay goi là Afghanistan và Turkey. (Islamic Sufi là một giáo phái mang nhiều ảnh hưởng và thấm nhuần Cứu thế giáo của Chúa Jesus). Bài thơ nầy đến đúng lúc chúng ta suy tư về ý nghĩa Giáng Sinh trong thế giới hỗn loạn ngày nay. Chúng ta hãy nghe những lời thông sáng của một thi sĩ thời xưa, hầu có thể mở rộng những Cửa Sổ Tình Yêu của chúng ta.
Những người ngồi trên phi cơ và những người ngồi trên băng ghế nhà thờ có rất nhiều điểm giống nhau. Tât cả đều trên một hành trình. Hầu hết giữ tư cách tốt đẹp và lịch sự. Một số ngủ gà ngủ gật, một số khác đăm nhìn ra cửa sổ. Hầu hết, nếu không phải tất cả, thỏa lòng với một kinh nghiệm có thể đoán trước. Đối với nhiều người, dấu hiệu của một chuyến bay tốt đẹp và dấu hiệu của một buổi nhóm thờ phượng tốt đẹp giống nhau. Chúng ta thích nói: “Tốt đẹp.” – “Một chuyến bay tốt đẹp,” hay “Một buổi thờ phượng tốt đẹp.” Chúng ta đi ra cùng một lối chúng ta vào, và chúng ta vui vẻ trở lại kỳ tới.
Xin được hầu chuyện cùng Bạn về ngôi nhà của Bạn. Chúng ta hãy bước qua ngưỡng cửa và thử đi một vòng. Bạn biết, một người sáng suốt thường hay thực hiện một cuộc quan sát trong nhà – kiểm soát mái nhà bị dột, xem các vách bị cong và nền nhà bị nứt? Thử xem các tủ chén trong bếp của Bạn có dầy đủ không; và nhìn qua các quyển sách xếp trên kệ trong thư phòng của Bạn. Chi vậy? Bạn nghĩ rằng thật kỳ cục khi tôi muốn dòm ngó căn nhà của Bạn? Bạn đã nghĩ rằng tôi chỉ viết về các vấn đề thuộc linh? Đúng thế. Xin thứ lỗi, lẽ ra tôi phải nói rõ hơn. Tôi không nói về căn nhà hữu thể của Bạn bằng đá hay tre, gỗ hay tranh, song một căn nhà vô hình của Bạn bằng tư tưởng và chân lý, tín quyết và hy vọng.
Một ngày trong cuộc đời Đấng Christ. Cứ gọi đó là một tấm thảm rối loạn, một tạp ảnh ồn ào, trong đó những sợi chỉ vàng của chiến thắng đan lẩn với những sợi chỉ đen tả tơi của bi kịch. Cứ gọi đó là một tấu khúc tình cảm, một buổi hòa nhạc từ rạngđông- đến-hoàng-hôn của tuyệt điểm. Một phần nhạc phổ vang điệu hân hoan, phần kế tiếp thở than bi lụy. Trên một trang, toàn ban trổi điệu tôn thờ, trang kế tiếp Chúa Jesus độc diễn cô đơn vũ khúc.